Chào các bạn, mời bạn quảng cáo banner tại đây kích thước 500x70 - giá mềm 700.000/tháng. liên hệ suckhoegd@gmail.com. Mr.Cường



| 1 tin nhắn ]




Gan nhiễm mỡ là gì? Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và viêm gan nhiễm mỡ không do rượu là gì?

Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu là tình trạng bệnh gan có giới hạn rộng từ gan nhiễm mỡ đơn thuần đến viêm gan nhiễm mỡ không do rượu hoặc xơ gan tiến triển không hồi phục.

Tất cả các giai đoạn của bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu có cùng chung một điểm là sự tích tụ (hay thâm nhiễm) mỡ trong gan. Trong viêm gan nhiễm mỡ không do rượu, tích tụ mỡ trong gan liên quan đến mức độ viêm gan và xơ gan.

Thuật ngữ không do rượu được sử dụng ở đây vì cả bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và viêm gan nhiễm mỡ không do rượu đều xảy ra ở những bệnh nhân không uống nhiều rượu.

Tuy nhiên trong nhiều phương diện, hình ảnh mô học (khi chúng ta nhìn mẫu sinh thiết gan dưới kính hiển vi) của bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu lại tương tự như bệnh gan của người uống nhiều rượu. Trái lại, về mặt lâm sàng thì bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và viêm gan nhiễm mỡ không do rượu rất khác bệnh gan do rượu (BGDR).

Phạm vi của bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu là gì?

Phạm vi của bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu được nghĩ bắt đầu và tiến triển từ giai đoạn đơn thuần nhất gọi là gan nhiễm mỡ đơn thuần. Ðiều đó có nghĩa rằng gan nhiễm mỡ là bất thường đầu tiên của bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu. Gan nhiễm mỡ đơn thuần chỉ liên quan đến sự tích tụ mỡ trong gan mà không gây hiện tượng viêm hay xơ. Loại mỡ tích tụ là Triglyceride tập trung trong những túi nhỏ bên trong tế bào gan. Mỡ tích tụ này không giống như những tế bào mỡ tạo ra mô mỡ của cơ thể chúng ta. Gan nhiễm mỡ là một tình trạng vô hại và tự nó không gây tổn thương đáng kể nào cho gan.

Giai đoạn trầm trọng tiếp theo của bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu là viêm gan nhiễm mỡ không do rượu. May mắn thay chỉ có một số nhỏ bệnh nhân bị gan nhiễm mỡ đơn thuần tiến triển thành viêm gan nhiễm mỡ không do rượu. Như đã đề cập trên, viêm gan nhiễm mỡ không do rượu liên quan đến sự tích tụ mỡ trong tế bào gan cũng như tình trạng viêm gan. Những tế bào viêm có thể phá huỷ tế bào gan (hoại tử tế bào gan). Có bằng chứng chắc chắn rằng viêm gan nhiễm mỡ không do rượu, khác với gan nhiễm mỡ đơn thuần, không phải là một tình trạng vô hại. Ðiều này có nghĩa rằng viêm gan nhiễm mỡ không do rượu cuối cùng có thể đưa đến xơ sẹo gan và xơ gan tiến triển không hồi phục. Xơ gan do viêm gan nhiễm mỡ không do rượu là giai đoạn cuối và trầm trọng nhất của bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu.

Chúng ta chưa biết nhiều về bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu cũng như viêm gan nhiễm mỡ không do rượu. Sự tiến triển từ mỗi giai đoạn bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu vẫn chưa được hiểu rõ. Hơn nữa, ngay cả các bác sĩ chuyên khoa gan mật cũng chưa thống nhất định nghĩa vi thể chính xác của viêm gan nhiễm mỡ không do rượu. Tuy vậy, những bệnh nhân bị một trong ba giai đoạn của bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (gan nhiễm mỡ đơn thuần, viêm gan nhiễm mỡ không do rượu hay xơ gan) đều có cùng các yếu tố nguy cơ. Gan nhiễm mỡ và viêm gan nhiễm mỡ không do rượu được đề cập trong bài này như là một phần của bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu. Cần nhớ rằng bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu đề cập đến toàn bộ quá trình từ gan nhiễm mỡ ban đầu tiến triển thành viêm gan nhiễm mỡ không do rượu và cuối cùng là xơ gan. Viêm gan nhiễm mỡ không do rượu là một giai đoạn liên quan đến sự tích tụ mỡ, viêm và xơ hoá trong gan.

Có nguyên nhân nào khác gây tích tụ mỡ trong gan không?

Thực ra có rất nhiều nguyên nhân khác cũng gây tích tụ mỡ trong gan ngoài bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu. Tuy nhiên, bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và viêm gan nhiễm mỡ không do rượu được xem như là bệnh gan nhiễm mỡ nguyên phát. Bệnh gan nhiễm mỡ thứ phát là bệnh xảy ra trên nền những bệnh gan khác, ví dụ như bệnh gan do rượu (BGDR) là bệnh gan nhiễm mỡ thứ phát thường gặp nhất. Bệnh gan nhiễm mỡ thứ phát cũng có thể xảy ra trong viêm gan siêu vi C mãn, viêm gan siêu B mãn, viêm gan tự miễn và bệnh Wilson (bệnh viêm gan tự miễn là do hệ thống miễn dịch của cơ thể tấn công lầm chính tế bào gan của nó còn trong bệnh Wilson thì gan bị tổn thương do tích tụ đồng). Trong tất cả các bệnh gan nhiễm mỡ thứ phát này thì tình trạng gan nhiễm mỡ có liên quan đến các bất thường khác của gan khác biệt rõ với bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và được nghĩ là do tổn thương tế bào gan.

Có một loại bệnh gan nhiễm mỡ thứ phát khác lại không liên quan đến các bệnh gan đặc biệt. Trong những trường hợp này thì sự tích tụ mỡ trong gan là do sự mất cân bằng trong chuyển hoá mỡ của cơ thể hơn là do tổn thương trực tiếp tế bào gan. Các nguyên nhân gây ra tình trạng này có thể là một số thuốc (ví dụ Prednisone), một số phẫu thuật dạ dày ruột để điều trị bệnh béo phì, chứng suy dinh dưỡng và một số khiếm khuyết gen trong các protein chuyển hoá lipid. Tất cả các nguyên nhân thứ phát của bệnh gan nhiễm mỡ phải được loại trừ trước khi chẩn đoán bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu. Ðiều này lý giải tại sao bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu được chẩn đoán bằng phương pháp loại trừ.

Chúng ta biết về bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và viêm gan nhiễm mỡ không do rượu đã bao lâu?

Các bác sĩ chuyên khoa gan mật phát hiện bệnh này từ thập niên 1970 nhưng lúc đó bệnh được mô tả bằng những tên khác. Ðến năm 1980, Bác Sĩ J.Ludwig thuộc phòng khám Mayo ở Rochester, Minnesota đã thực hiện một khảo sát kỹ lưỡng, ông nhận thấy rằng những người có cùng những đặc điểm như béo phì, tiểu đường, tăng cholesterol máu thì mắc một bệnh gan gần giống như bệnh gan do rượu mặc dù họ không uống rượu bao giờ. Vì vậy Bác sĩ Ludwig là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ viêm gan nhiễm mỡ không do rượu. Tuy nhiên, trong một thời gian dài hầu hết các Bác sĩ đều nghĩ rằng viêm gan nhiễm mỡ không do rượu là một tình trạng hoàn toàn vô hại không liên can gì đến các bệnh gan khác (đặc biệt là viêm gan siêu vi). Vào thời điểm này người ta đã xem viêm gan nhiễm mỡ không do rượu giống như gan nhiễm mỡ đơn thuần.

Sự phát hiện virus viêm gan C (HCV) đóng vai trò ngẫu nhiên trong việc ghi nhận các dấu hiệu lâm sàng của viêm gan nhiễm mỡ không do rượu. Trước năm 1990, những người bị viêm gan có dấu hiệu giống siêu vi A hay siêu vi B nhưng xét nghiệm máu cả hai loại này đều âm tính thì được gọi là viêm gan siêu vi không A không B. Ðến năm 1990 siêu vi viêm gan C (HCV) mới được phát hiện. Những năm tiếp theo người ta đã phát hiện ra đường lây lan của HCV (truyền máu và sử dụng thuốc chích tĩnh mạch) và ảnh hưởng của HCV lên tế bào gan. Ðiều này cho thấy phần lớn viêm gan siêu vi không A không B thực ra là viêm gan siêu vi C. Tuy nhiên vẫn còn một số bệnh nhân có HCV âm tính và cũng không xác định được các bệnh gan khác. Sau đó các nhà nghiên cứu phát hiện rằng chính viêm gan nhiễm mỡ không do rượu là nguyên nhân của các trường hợp này. Sự phát hiện này từ đó đã đưa đến một trào lưu nghiên cứu viêm gan nhiễm mỡ không do rượu và cho chúng ta biết đó không phải là một tình trạng vô hại.

Các nghiên cứu lâm sàng và nghiên cứu cơ bản về bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu vẫn còn trong giai đoạn chập chững khi so sánh với các bệnh gan phổ biến khác như bệnh gan do rượu và HCV. Kết quả là chúng ta vẫn chưa hiểu rõ lịch sử tự nhiên của bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu. Hơn nữa, chúng ta cũng không biết nhiều về quá trình đáp ứng với tiến trình của bệnh từ gan nhiễm mỡ đơn thuần đến viêm gan nhiễm mỡ không do rượu và từ viêm gan nhiễm mỡ không do rượu tới xơ gan.

Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và viêm gan nhiễm mỡ không do rượu có phổ biến không? Ai có nguy cơ mắc bệnh này?

Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu có lẽ là bệnh gan phổ biến nhất tại Hoa Kỳ. Mặc dù số lượng các trường hợp bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và viêm gan nhiễm mỡ không do rượu chính xác còn hạn chế nhưng người ta đã có những con số ước tính. Ngoài ra các thông tin về những người có nguy cơ bị bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và viêm gan nhiễm mỡ không do rượu đã có sẵn.

Tại sao thông tin về số lượng bệnh nhân bị hạn chế?

Cho đến tận hôm nay vẫn không có dữ liệu nào có sẵn về tỷ lệ mắc (số ca mới mắc hàng năm) của bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu hay viêm gan nhiễm mỡ không do rượu ở Mỹ hay ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Ðể xác định tỷ lệ mắc của các bệnh này cần phải có một nghiên cứu lâu dài trong nhóm dân số có nguy cơ. Tuy nhiên, những thông tin như vậy chỉ mới được một số trung tâm y khoa bắt đầu thu thập.

Tuy nhiên, chúng ta lại có thể lấy số liệu dựa trên lưu hành độ (số ca quan sát được tại một thời điểm) của bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và viêm gan nhiễm mỡ không do rượu trong một nghiên cứu cắt ngang dân số có nguy cơ. Do đó, việc biết được cá nhân nào có nguy cơ là điều rất quan trọng. Về phương diện này có nhiều bằng chứng hỗ trợ cho giả thuyết rằng bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu liên quan đến tình trạng kháng insulin mà nó sẽ được mô tả chi tiết phần sau. Ngoài ra cũng có đủ bằng chứng để nói rằng tiểu đường tuýp II và đặc biệt là tình trạng quá trọng và béo phì là những đặc tính dễ nhận biết nhất của tình trạng đề kháng insulin.

Chỉ số khối (BMI) là gì? Nó có liên quan như thế nào với bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và viêm gan nhiễm mỡ không do rượu?

Như vừa đề cập ở trên, béo phì có liên hệ chặc chẽ với bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu. Vì vậy để biết được tần suất bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và viêm gan nhiễm mỡ không do rượu và tác động của béo phì lên bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu trong dân số thì trước tiên phải hiểu được định nghĩa béo phì là gì. Ðể xác định mức độ béo phì người ta dùng một chỉ số gọi là chỉ số khối (BMI).

Chỉ số khối (BMI) được tính bằng công thức lấy cân nặng (kg) chia chiều cao bình phương (m2) hoặc cân nặng (lbs) chia chiều cao bình phương (inches2) rồi nhân 703. Ở người trưởng thành BMI bình thường là 20-25. Từ 25 đến 30 là quá trọng (mập), 30-35 là béo phì, 35-40 là quá béo phì, 40-45 là béo phì bệnh lý, 45-50 là siêu béo phì còn trên 50 là siêu béo phì bệnh lý. Ngoài chỉ số BMI, béo phì còn được xác định dựa vào sự phân bố mỡ trong cơ thể. Mỡ có thể phân bố chủ yếu ở hông (dạng nữ hay dạng quả lê) hoặc ở bụng (vùng trung tâm, dạng nam hay dạng quả táo). Tụ mỡ nhiều ở bụng là dạng béo phì thường gặp nhất ở người kháng insulin. Béo phì bụng được xác định ở nam giới bằng tỷ số vòng eo trên vòng hông lớn hơn 1.0 hoặc vòng eo lớn hơn 40 inche (102 cm). Ở phụ nữ béo phì bụng khi tỷ số vòng eo trên vòng hông lớn hơn 0.8 hoặc vòng eo lớn hơn 35 inche (88 cm). Thực ra chỉ cần phương pháp đo vòng eo cũng dự đoán được rất tốt loại phân bố mỡ ở bụng mà nó có liên quan mật thiết với chứng kháng insulin.

Giới hạn bình thường của chỉ số BMI và chu vi vòng eo không dựa trên vẻ bề ngoài mà chúng dựa trên nguy cơ phát triển các biến chứng do quá trọng (tỷ lệ bệnh liên quan với BMI) như là bệnh mạch vành và tiểu đường. Tuy nhiên ở trẻ em thì giới hạn bình thường của BMI rất thay đổi tuỳ theo lứa tuổi và giới tính. Hơn nữa cho đến năm 16 tuổi thì giới hạn trên bình thường của BMI của trẻ cũng thấp hơn 25 cho nên ở trẻ em mức độ béo phì thường được đánh giá dựa vào tỷ lệ phần trăm so với cân nặng lý tưởng.

Số bệnh nhân mắc bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và viêm gan nhiễm mỡ không do rượu dự đoán là bao nhiêu?

Theo dự đoán thì bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu nguyên phát chủ yếu là ở các nước phát triển. Trong những xã hội này, lối sống ít vận động và chế độ ăn nhiều năng lượng (calorie), nhiều đường và mỡ đã dẫn đến tiểu đường tuýp II và béo phì.

Vì thế ở các nước phát triển lưu hành độ (số trường hợp quan sát được tại một thời điểm) của bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu trong dân số được dự đoán xấp xỉ 20% và của viêm gan nhiễm mỡ không do rượu là 3%. Lưu hành độ của bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và viêm gan nhiễm mỡ không do rượu ở nhóm béo phì và tiểu đường cao hơn. Cơ sở của phỏng đoán này là có đến 55% bệnh nhân viêm gan nhiễm mỡ không do rượu bị tiểu đường và 95% bị béo phì. Vì vậy lưu hành độ của gan nhiễm mỡ đơn thuần trong người béo phì có thể ước đoán là gần 90% và lưu hành độ của viêm gan nhiễm mỡ không do rượu ở người béo phì tối đa là 20%. Viêm gan nhiễm mỡ không do rượu là một bệnh điển hình của phụ nữ trung niên bị béo phì với phân bố mỡ chủ yếu ở bụng. Tuy nhiên, cũng có nhiều báo cáo viêm gan nhiễm mỡ không do rượu liên quan đến béo phì ở nam giới và thậm chí cả trẻ em.

Trung tâm kiểm soát bệnh (CDC) báo cáo rằng hiện tại có gần một nửa người Mỹ trưởng thành bị quá trọng (BMI>25) và một phần tư bị béo phì (BMI>30). Còn ở Việt Nam chưa có con số thống kê. Từ lưu hành độ của bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và viêm gan nhiễm mỡ không do rượu ở nhóm béo phì nếu tính toán lên toàn bộ dân số sẽ cho ra số dự đoán là 29 triệu người Mỹ bị bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và 6,4 triệu bị viêm gan nhiễm mỡ không do rượu.

Tuy nhiên dự đoán này rất chung chung. Một cách tiên đoán khác là nghiên cứu mối liên hệ giữa BMI sự gia tăng men gan. Ở bệnh nhân béo phì thì men gan tăng có thể do bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu. Vì vậy, khi so sánh với nhóm có BMI bình thường (£ 25) thì nguy cơ tăng men gan ở nam giới của nhóm có BMI 25-30 gấp 2 lần, của nhóm BMI 30-35 gấp 4 lần, của nhóm BMI 35-40 gấp 5 lần và của nhóm BMI lớn hơn 40 gấp tới 6 lần. Ðối với nữ thì nguy cơ của nhón BMI 25-30 gấp 2 lần, BMI 30-35 gấp 2,5 lần, BMI 35-40 gấp 4 lần và BMI lớn hơn 40 gấp 5 lần.

Hiện tại, bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu là bệnh gan phổ biến nhất tại Mỹ chiếm tỷ lệ dự đoán là 24% tất cả các bệnh gan.
(Theo BSGĐ)

Bookmark and Share

1 tin nhắn

Nguyễn Bích Liên nói... @ 09:38 22/7/07

A helpful blog ! thanks a lot !

Đăng nhận xét

Xem ký tự của emoticons vui nhộn tại đây.

[▼/▲] More Emoticons
:)) ;)) ;;) :D ;) :p :(( :) :( :X =(( :-o :-/ :-* :| 8-} :)] ~x( :-t b-( :-L x( =))

Chào các bạn, bạn đã vào trang Benhtimmach.com chưa, đây là trang tư vấn sức khoẻ miễn phí chuyên sâu về lĩnh vực tim mạch click here